Sự phát triển của văn hóa và Phật giáo Thời_kỳ_Nara

ShōsōinNgôi chùa phía đông của chùa Yakushi-ji được xây dựng vào năm 730, trong thời kỳ NaraTượng Đức Phật tại Nara (Tōdai-ji), 752 CE.

Một vài tác phẩm văn học bất hủ của Nhật Bản đã được viết trong thời kỳ Nara, bao gồm các quyển Kojiki (古事記) và Nihon shoki (日本書紀) viết về lịch sử đầu tiên của nước Nhật đã được biên soạn vào năm 712 và năm 720 theo thứ tự; các hợp tuyển thi ca Man'yōshū (万葉集, Vạn diệp tập) và Kaifūsō (懐風藻, Hồi ức yêu dấu) đã được các Hoàng đế và Hoàng tử Nhật Bản viết bằng chữ Trung Quốc.

Một phát triển văn hóa quan trọng khác trong thời đại này là Phật giáo đã được chính thức hóa. Vào thế kỷ thứ 6, Phật giáo đã được Baekje đưa vào Nhật Bản nhưng sự tiếp thu bị pha trộn cho đến khi Thiên hoàng Shōmu (聖武天皇 Shōmu Tennō. Thành Võ Thiên Hoàng) ở thời kỳ Nara thành tâm đón nhận. Hoàng đế Shōmu và thân tộc Fujiwara của ông là các Phật tử nhiệt thành đã tích cực truyền bá Phật giáo, biến Phật giáo thành "người bảo vệ đất nước" và là một phương cách làm cho thể chế Nhật Bản thêm vững mạnh.

Dưới triều đại Shōmu, chùa Tōdai-ji (東大寺, Đông Đại Tự) đã được xây cất với tượng Phật Dainichi (Phật Thái dương) cao 16 mét bằng đồng. Đức Phật này có liên quan chặt chẽ với Nữ thần Thái dương và sự hỗn tạp dần nảy sinh sau đó giữa Phật giáo và đạo Shinto. Hoàng đế Shōmu tự nhận là "Bầy tôi của Tam bảo" Phật giáo: Phật, Pháp và Tăng.

Ngoài ra chính phủ còn cho xây dựng các chùa kokubunji (国分寺, Quốc Phận Tự) tại các tỉnh. Chùa Tōdai-ji là một kokubunji của tỉnh Yamato (大和国, Đại Hòa quốc, ngày nay là Tỉnh Nara, 奈良県).

Mặc dù những cố gắng này đã thúc đẩy Phật giáo thành một tôn giáo của quốc gia, nhưng Phật giáo Nara đã làm tăng thêm thân thế của hoàng tộc. Thế lực của Phật tử tại triều đình đã tăng thêm dưới hai triều đại của con gái Shōmu. Nữ hoàng Kōken (孝謙天皇 Kōken Tennō, Hiếu Khiêm Thiên Hoàng trị vì từ năm 749 đến năm 758) đã triệu nhiều tu sĩ Phật giáo vào triều đình. Kōken đã thoái vị năm 758 theo lời khuyên của người anh họ Fujiwara no Nakamaro (藤原 仲麻呂, Đằng Nguyên Trọng Ma Lữ). Khi bà Nữ hoàng đã thoái vị bắt đầu chiếu cố đến một tu sĩ Phật giáo tên là Dōkyō (道鏡, Đạo Cảnh) thì Nakamaro vũ trang chống lại vào năm 764 nhưng đã bị tiêu diệt nhanh chóng. Kōken đã buộc Hoàng đế tội thông đồng với Nakamaro và phế truất Ông. Kōken lại lên ngôi Nữ hoàng với tên hiệu là Shōtoku (称徳天皇 Shōtoku Tennō, Thánh Đức Thiên Hoàng trị vì từ năm 764 đến năm 770). Nữ hoàng đã cho xuất bản kinh một triệu lời cầu nguyện —the Hyakumanto dharani (百万塔陀羅尼, Bách Vạn Tháp Đà La Ni) —. Bản in vào năm 770 này là một trong những ấn phẩm được xuất bản sớm nhất trên thế giới. Shōtoku cho in các quyển kinh này nhằm xoa dịu giới tăng lữ Phật giáo. Bà còn mong muốn lập Dōkyō làm Hoàng đế nhưng bà đã qua đời trước khi kịp thực hiện quyết định này. Các hành vi của bà đã khích động xã hội Nara dẫn đến việc loại trừ phụ nữ trong triều đình lên nối ngôi và cách chức các tu sĩ Phật giáo có chức vụ trong chính trị.

Rất nhiều tác phẩm nghệ thuật và báu vật từ nước ngoài của Nhật Bản dưới thời Nhật hoàng Shōmu và Shōtoku đều được sưu tầm ở Shōsō-in ở đền Tōdai-ji. Chúng được gọi là kho Shōsōin, minh họa văn hóa thế giới hay còn gọi là văn hóa Tempyō. Các báu vật từ bên ngoài cho thấy rất nhiều ảnh hưởng từ khu vực Con đường tơ lụa, bao gồm Trung Quốc, Ấn Độ, Triều Tiên, và các Đế chế Hồi giáo. Shosoin cũng lưu trữ 10.000 trang bản thảo gọi là thư tịch Shōsōin (正倉院文書) ("Chính Thương viện văn thư’’). Đầy là lưu trữ chép tay ở mặt ngược kinh Phật hay trên bao ngoài của vật nhập khẩu, và tồn tại được là nhờ việc dùng lại các thư tịch chính thức. Văn thư Shōsōin đóng góp rất lớn vào việc nghiên cứu hệ thống chính trị và xã hội của thời kỳ Nara, trong khi chúng thậm chí còn chỉ ra sự phát triển của hệ thống chữ viết Nhật Bản (ví dụ như katakana).